0983 608 638
036 364 4493

Khái quát định nghĩa về Ngân Hàng



    Ngân hàng là gì ??? Định nghĩa của một ngân hàng khác nhau giữa các nước trên thế giới ( tùy nét văn hóa, lịch sử & con người ). Theo thông luật Anh, người hoạt động ngân hàng được định nghĩa là người thực hiện kinh doanh hoạt động ngân hàng, quản lý các tài khoản vãng lai cho khách hàng của mình, trả tiền các séc được khách hàng rút tiền, và thu tiền các séc cho các khách hàng của mình.
    Ngân hàng là một tổ chức tài chính và trung gian tài chính chấp nhận tiền gửi và định kênh những tiền gửi đó vào các hoạt động cho vay trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua các thị trường vốn. Ngân hàng là kết nối giữa khách hàng có thâm hụt vốn và khách hàng có thặng dư vốn.
    Do ảnh hưởng của chúng trong hệ thống tài chính và nền kinh tế, các ngân hàng bị quy định cao tại hầu hết các nước. Hầu như tất cả các ngân hàng hoạt động theo một hệ thống được gọi là hoạt động ngân hàng dự trữ phân đoạn mà họ chỉ nắm giữ một dự trữ nhỏ của các khoản tiền gửi và cho vay phần còn lại để kiếm lời. Điều này nói chung là tùy thuộc vào các yêu cầu vốn tối thiểu được dựa trên một bộ tiêu chuẩn quốc tế về vốn, được gọi là Hiệp ước vốn Basel.
    Hoạt động ngân hàng theo nghĩa hiện đại của nó đã phát triển từ thế kỷ 14 tại các thành phố giàu có của Italia thời Phục hưng nhưng trong nhiều cách là một sự tiếp nối của những ý tưởng và khái niệm của tín dụng và cho vay bắt nguồn từ thế giới cổ đại. Trong lịch sử hoạt động ngân hàng, một số triều đại ngân hàng đã đóng một vai trò trung tâm trong nhiều thế kỷ.
    Hoạt động ngân hàng theo nghĩa hiện đại của từ này có thể được truy nguồn tới nước Italia thời trung cổ và đầu Phục Hưng, đến các thành phố giàu có ở phía Bắc như thành phố Firenze, Lucca, Siena, Venice, Genoa. Các Bardi và các gia đình Peruzzi thống trị hoạt động ngân hàng trong Florence thế kỷ 14, bằng cách thành lập chi nhánh ở nhiều nơi khác của Châu Âu. Một trong những ngân hàng nổi tiếng nhất của Italia là Ngân hàng Medici, được thành lập bởi Giovanni di Bicci de 'Medici năm 1397. Ngân hàng tiền gửi nhà nước được biết đến sớm nhất, Banco di San Giorgio ( Bank of St. George) , được thành lập năm 1407 tại Genoa, Italia.
    Ngân hàng lâu đời nhất còn tồn tại là Monte dei Paschi di Siena, trụ sở chính tại Siena, Italia, đã hoạt động liên tục kể từ năm 1472. Tiếp sau đó là Berenberg Bank của Hamburg ( 1590 ) và Sveriges Riksbank của Thụy Điển ( 1668 ).
    Nguồn gốc : từ " BANK " đã được vay mượn trong tiếng Anh trung cổ từ tiếng France trung cổ banque, từ tiếng Italia cổ banca, từ Old High German banc, bank "ghế, quầy". Các ghế đã được sử dụng như các cái bàn hay các quầy giao dịch trong thời kỳ Phục hưng bởi những nhà hoạt động ngân hàng Florentine, những người đã từng tiến hành các nghiệp vụ của họ trên mặt những chiếc bàn được phủ khăn trải bàn Green Tree.
    Một trong những món cổ vật lâu đời nhất được tìm thấy cho thấy các hoạt động đổi tiền là một đồng tiền drachm Hy Lạp bằng bạc từ Trapezus thuộc địa của Hy Lạp cổ đại trên Biển Đen, hiện đại Trabzon, 350-325 trước Công nguyên, được trưng bày trong Bảo tàng Anh tại Luân Đôn. Đồng xu cho thấy một bàn của người làm ngân hàng ( trapeza ) đầy tiền xu, một sự chơi chữ tên của thành phố. Trên thực tế, ngay cả ngày nay trong tiếng Hy Lạp hiện đại từ trapeza ( Τράπεζα ) có nghĩa đồng thời là bàn và ngân hàng.

Các hoạt động tiêu chuẩn
    Các ngân hàng hành động như các đại lý thanh toán bằng cách quản lý các tài khoản séc hoặc vãng lai cho khách hàng, trả tiền các séc được rút bởi khách hàng tại ngân hàng, và thu các séc gửi vào tài khoản vãng lai của khách hàng. Các ngân hàng cũng cho phép khách hàng thanh toán qua các phương thức thanh toán khác như thanh toán bù trừ ( ACH ), chuyển khoản trong nước hoặc chuyển khoản quốc tế, EFTPOS và máy rút tiền tự động ( ATM ).
    Các ngân hàng vay tiền bằng cách nhận các khoản tiền được ký quỹ trên các tài khoản vãng lai, nhận tiền gửi kỳ hạn và phát hành các chứng khoán nợ như tiền giấy và trái phiếu. Các ngân hàng cho vay tiền bằng cách ứng trước cho khách hàng trên tài khoản vãng lai, cho vay trả góp, đầu tư vào chứng khoán nợ có thể giao dịch trên thị trường và các hình thức cho vay tiền khác.
    Các ngân hàng cung cấp các dịch vụ thanh toán khác nhau, và một tài khoản ngân hàng được coi là thứ không thể thiếu của hầu hết các doanh nghiệp và cá nhân. Các tổ chức phi ngân hàng cung cấp dịch vụ thanh toán như các công ty chuyển tiền thường không được coi là một sự thay thế thích hợp cho một tài khoản ngân hàng.
   Các ngân hàng có thể tạo ra tiền mới khi họ cho vay. Các khoản vay mới trên toàn hệ thống hoạt động ngân hàng tạo ra tiền gửi mới ở những nơi khác trong hệ thống. Cung tiền này thường được tăng bởi hành vi cho vay và giảm đi khi các khoản vay được hoàn trả nhanh hơn so với những khoản vay mới được tạo ra. Ở Vương quốc Anh từ năm 1997 >>> 2007, đã có một sự gia tăng lớn trong việc cung cấp tiền, chủ yếu là do ngân hàng cho vay nhiều hơn, điều này được dùng để đẩy giá bất động sản và tăng nợ tư nhân. Số tiền trong nền kinh tế được đo bằng M4 ở Anh đã tăng từ 750 tỷ bảng Anh lên 1700 tỷ bảng Anh từ năm 1997 >>> 2007, phần lớn sự gia tăng này do ngân hàng cho vay. Nếu tất cả các ngân hàng tăng cho vay của họ cùng nhau, sau đó họ có thể mong đợi các tiền gửi mới để trả lại cho họ và số tiền trong nền kinh tế sẽ tăng lên. Cho vay quá mức hoặc nguy hiểm có thể làm cho những người vay vỡ nợ, các ngân hàng sau đó trở nên thận trọng hơn, do đó, cho vay ít hơn và do đó ít tiền để nền kinh tế có thể đi từ sự bùng nổ tới phá sản như đã xảy ra ở Anh và nhiều nền kinh tế phương Tây khác sau năm 2007.

Các kênh :
Các ngân hàng cung cấp nhiều kênh khác nhau để truy cập vào hoạt động ngân hàng và các dịch vụ khác của họ
- Máy rút tiền tự động
- Chi nhánh là một địa điểm bán lẻ
- Sở giao dịch
- Thư tín : hầu hết các ngân hàng nhận ký quỹ séc qua đường bưu chính và sử dụng email để liên lạc với khách hàng của họ, ví dụ như bằng cách gửi ra báo cáo
- Hoạt động ngân hàng di động là một phương pháp sử dụng điện thoại di động của một người thực hiện giao dịch ngân hàng
- Ngân hàng trực tuyến là một thuật ngữ được sử dụng để thực hiện nhiều giao dịch, vv thanh toán qua Internet
- Quản lý mối quan hệ, chủ yếu là hoạt động ngân hàng tư nhân, hoạt động ngân hàng kinh doanh, thường xuyên thăm hỏi khách hàng tại nhà hoặc doanh nghiệp của họ
- Hoạt động ngân hàng điện thoại là một dịch vụ cho phép khách hàng thực hiện giao dịch qua điện thoại với điện thoại viên tự động hoặc khi có yêu cầu với tổng đài điện thoại
- Hoạt động ngân hàng Video là một thuật ngữ được sử dụng cho việc thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng hoặc các tư vấn hoạt động ngân hàng chuyên nghiệp thông qua một kết nối video và âm thanh từ xa. Hoạt động ngân hàng Video có thể được thực hiện thông qua mục đích xây dựng các máy nghiệp vụ hoạt động ngân hàng (tương tự như một máy rút tiền tự động), hoặc thông qua một hội nghị video cho phép làm rõ chi nhánh ngân hàng.
  
Mô hình kinh doanh
    Một ngân hàng có thể tạo ra doanh thu theo nhiều cách khác nhau bao gồm tiền lãi, các phí nghiệp vụ và tư vấn tài chính. Phương pháp chính là thông qua tính phí tiền lãi trên phần vốn cho các khách hàng vay.[cần dẫn nguồn] Lợi nhuận ngân hàng từ sự khác biệt giữa mức tiền lãi nó trả cho tiền gửi và các nguồn vốn khác, và mức tiền lãi nó tính phí trong hoạt động cho vay của mình.
    Sự khác biệt này được gọi là chênh lệch giữa chi phí cấp vốn và lãi suất cho vay. Trong lịch sử, khả năng lợi nhuận từ các hoạt động cho vay là có tính chu kỳ và phụ thuộc vào nhu cầu và sức mạnh của khách hàng vay và giai đoạn của chu kỳ kinh tế. Các phí và tư vấn tài chính là luồng thu nhập ổn định hơn và do đó các ngân hàng đã chú trọng hơn vào những dòng doanh thu này để làm mịn hiệu quả tài chính của họ.
    Trong 20 năm qua các ngân hàng Mỹ đã thực hiện nhiều biện pháp để đảm bảo rằng họ vẫn có thể có lợi nhuận trong khi đáp ứng các điều kiện thị trường ngày càng thay đổi.
    A : Điều này bao gồm Đạo luật Gramm-Leach-Bliley, cho phép các ngân hàng một lần nữa để kết hợp với đầu tư và bảo hiểm nhà. Việc sáp nhập ngân hàng, các chức năng đầu tư và bảo hiểm cho phép các ngân hàng truyền thống đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng "giao dịch một cửa" bằng cách cho phép bán chéo các sản phẩm (điều này, các ngân hàng hy vọng, cũng sẽ tăng khả năng lợi nhuận).
    B : Họ đã mở rộng việc sử dụng định giá dựa trên rủi ro từ cho vay kinh doanh sang cho vay tiêu dùng, có nghĩa là tính lãi suất cao hơn cho những khách hàng được coi là một rủi ro tín dụng cao hơn và do đó tăng cơ hội của vỡ nợ trên các khoản vay. Điều này giúp bù đắp những tổn thất từ ​​các khoản vay xấu, làm giảm giá của các khoản vay cho những người có lịch sử tín dụng tốt hơn, và cung cấp các sản phẩm tín dụng cho các khách hàng có rủi ro cao, người mà trong điều kiện khác sẽ bị từ chối tín dụng.
    C : Họ đã tìm cách tăng các phương pháp xử lý thanh toán có sẵn cho công chúng nói chung và khách hàng kinh doanh nói riêng. Những sản phẩm này bao gồm thẻ ghi nợ, thẻ trả trước, thẻ thông minh, và thẻ tín dụng. Chúng làm cho dễ dàng hơn đối với người tiêu dùng để thực hiện giao dịch một cách thuận tiện và làm mịn tiêu thụ của họ theo thời gian ( trong một số quốc gia với hệ thống tài chính kém phát triển, nó vẫn còn phổ biến để xử lý nghiêm bằng tiền mặt, bao gồm việc mang các vali đầy tiền mặt để mua một ngôi nhà ).
    Tuy nhiên, với sự tiện lợi của tín dụng dễ dàng, cũng có nguy cơ tăng lên rằng người tiêu dùng sẽ quản lý dở các nguồn lực tài chính của họ và tích lũy nợ quá mức. Các ngân hàng làm ra tiền từ các sản phẩm thẻ thông qua thanh toán có lãi và các phí được tính cho người tiêu dùng và các phí nghiệp vụ cho các công ty chấp nhận thẻ tín dụng hoặc thẻ ghi nợ, bên cạnh đó đồng hành là các thiết bị ngân hàng ( máy đếm, máy kiểm, máy bó tiền ... ) sử dụng công nghệ hiện đại phò tá công việc, giúp tăng tối đa hiệu quả trong công việc cũng như tối ưu về mặt thời gian công việc. Điều này giúp cho việc làm ra lợi nhuận và tạo điều kiện phát triển kinh tế nói chung.

Các sản phẩm
Hoạt động ngân hàng bán lẻ
- Tài khoản séc
- Tài khoản tiết kiệm, Sổ tiết kiệm
- Tài khoản thị trường tiền tệ
- Chứng nhận tiền gửi ( CD )
- Tài khoản hưu trí cá nhân ( IRA )
- Thẻ tín dụng Visa debit ...
- Thẻ ghi nợ
- Cho vay thế chấp
- Quỹ tương hỗ
- Cho vay cá nhân
- Tiền gửi có kỳ hạn
- Thẻ ATM
- Tài khoản vãng lai
- Sổ séc
...

Hoạt động ngân hàng doanh nghiệp ( hay thương mại/đầu tư )
- Cho vay kinh doanh
- Nâng vốn (Vốn cổ phần / Nợ / Chứng khoán lai)
- Tài chính tầng lửng
- Tài chính dự án
- Tín dụng quay vòng
- Quản lý rủi ro (Thị trường ngoại hối, Lãi suất, Hàng hóa, Phái sinh tài chính)
- Bao thanh toán
- Cho vay kỳ hạn
- Dịch vụ quản lý tiền mặt ( Két khóa, Nhận tiền gửi từ xa, Xử lý buôn bán )
...

Rủi ro và vốn
    Các ngân hàng phải đối mặt với một số rủi ro để tiến hành kinh doanh của họ, và cách những rủi ro này được quản lý và được hiểu là một yếu tố dẫn dắt chính đằng sau khả năng lợi nhuận, và bao nhiêu vốn một ngân hàng được yêu cầu nắm giữ. Một số rủi ro chính đối mặt với các ngân hàng bao gồm :
- Rủi ro tín dụng: rủi ro mất mát phát sinh từ người vay vốn không thực hiện thanh toán như đã hứa.
- Rủi ro thanh khoản: rủi ro mà một chứng khoán hoặc tài sản không thể được trao đổi một cách đủ nhanh chóng trên thị trường để ngăn chặn một sự mất mát (hoặc làm ra lợi nhuận cần thiết).
- Rủi ro thị trường: rủi ro giá trị của một danh mục, hoặc là danh mục đầu tư hoặc là danh mục trao đổi, sẽ giảm do sự thay đổi trong giá trị của các yếu tố rủi ro thị trường.
- Rủi ro hoạt động: rủi ro phát sinh từ việc thực hiện các chức năng kinh doanh của ngân hàng.
- Rủi ro danh tiếng: một loại rủi ro liên quan đến độ tin cậy của kinh doanh.
- Rủi ro kinh tế vĩ mô: các rủi ro liên quan đến nền kinh tế tổng hợp mà ngân hàng đang hoạt động trong đó.[10]
    Yêu cầu vốn là một quy định ngân hàng, xác lập một khuôn khổ về cách các ngân hàng và các tổ chức lưu ký phải xử lý vốn của họ. Việc phân loại các tài sản và vốn được tiêu chuẩn hóa rất cao để nó có thể được gia quyền rủi ro

Các chức năng kinh tế của ngân hàng bao gồm:
   
    A : Phát hành tiền, trong các hình thức tiền giấy và các tài khoản vãng lai cho séc hoặc thanh toán theo lệnh của khách hàng. Những yêu cầu này trên các ngân hàng có thể hoạt động như tiền bạc bởi vì chúng có thể thỏa thuận hoặc có thể chi trả theo yêu cầu, và do đó có ngang giá trị. Chúng là có thể chuyển nhượng một cách hiệu quả chỉ bởi việc giao đi, trong trường hợp của tiền giấy, hoặc bằng cách rút một tấm séc mà ngân hàng có thể nhận thanh toán hoặc trả tiền mặt.
 
    B : Hoạt động mạng lưới và giải quyết thanh toán : các ngân hàng hoạt động như các đại lý thu thập và trả tiền cho khách hàng, tham gia thanh toán bù trừ liên ngân hàng và các hệ thống giải quyết thanh toán để thu thập, trình bày, được trình bày với, và chi trả các công cụ thanh toán. Điều này cho phép các ngân hàng tiết kiệm các dự trữ được nắm giữ để giải quyết các khoản thanh toán, do các thanh toán tiền đi và về bù trừ cho nhau. Nó cũng cho phép bù trừ của các dòng thanh toán giữa các khu vực địa lý, giảm chi phí giải quyết giữa chúng.
 
    C : Trung gian tín dụng : các ngân hàng vay và cho vay back-to-back trên tài khoản của mình như những người đàn ông trung niên.
 
    D : Cải thiện chất lượng tín dụng : các ngân hàng cho vay tiền đối với các người vay thương mại và cá nhân thông thường ( chất lượng tín dụng thông thường ), nhưng là những người vay chất lượng cao. Cải thiện đến từ sự đa dạng hóa tài sản và vốn của ngân hàng mà cung cấp một bộ đệm để hấp thụ thua lỗ mà không vỡ nợ về các nghĩa vụ của nó. Tuy nhiên, tiền giấy và tiền gửi nói chung không có bảo đảm; nếu các ngân hàng gặp khó khăn và cam kết các tài sản là bảo đảm, nâng cao kinh phí nó cần thiết để tiếp tục hoạt động, điều này đặt người nắm giữ tiền và người gửi tiền ở một vị trí trực thuộc kinh tế.
 
    E : Không phù hợp trách nhiệm tài sản/Chuyển đổi đáo hạn : các ngân hàng vay nhiều hơn trên nợ nhu cầu và nợ ngắn hạn, nhưng cung cấp các khoản vay dài hạn hơn. Nói cách khác, họ vay ngắn và cho vay dài. Với chất lượng tín dụng mạnh hơn hầu hết người đi vay khác, các ngân hàng có thể làm điều này bằng cách tập hợp các phát hành ( ví dụ như nhận tiền gửi và phát hành tiền giấ y ) và các chuộc lại ( ví dụ như các rút tiền và chuộc lại tiền giấy ), duy trì dự trữ tiền mặt, đầu tư vào các chứng khoán có thể trao đổi trên thị trường mà có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt nếu cần thiết, và nâng cao kinh phí thay thế khi cần thiết từ nhiều nguồn khác nhau (ví dụ như thị trường tiền mặt bán buôn và thị trường chứng khoán).
   
    G : Sáng tạo tiền : bất cứ khi nào một ngân hàng cho ra một khoản vay trong một hệ thống hoạt động ngân hàng dự trữ phân đoạn, một tổng số tiền ảo mới được tạo ra.
Xem và tham khảo thêm về vật tư ngân hàng tại Việt Nam

Khủng hoảng ngân hàng
    Các ngân hàng rất nhạy cảm với nhiều hình thức rủi ro mà đã gây ra các cuộc khủng hoảng hệ thống thường xuyên gây tổn thất rất lớn & hiệu ứng cánh bướm. Chúng bao gồm rủi ro thanh khoản ( khi nhiều người gửi tiền có thể yêu cầu rút tiền vượt quá nguồn tiền có sẵn ), rủi ro tín dụng ( tình huống mà những người nợ tiền ngân hàng sẽ không trả được nợ ), và rủi ro lãi suất (khả năng ngân hàng sẽ trở nên không có lợi nhuận, nếu lãi suất tăng cao buộc nó trả nhiều hơn cho tiền gửi của nó hơn nó nhận được từ các khoản cho vay của mình).
    Các khủng hoảng hoạt động ngân hàng đã phát triển nhiều lần trong lịch sử, khi một hoặc nhiều rủi ro đã bị vật chất hóa cho khu vực ngân hàng nói chung. VD nổi bật bao gồm tháo chạy ngân hàng xảy ra trong Đại khủng hoảng, khủng hoảng tiết kiệm và cho vay Mỹ trong những năm 1980 và đầu những năm 1990, khủng hoảng hoạt động ngân hàng Nhật Bản trong những năm 1990, và khủng hoảng vay thế chấp dưới chuẩn trong những năm 2000.
Nguồn thông tin trích tắt từ Wikimedia Việt Nam